Theo thống kê, mỗi năm Thái Lan có hơn 1,5 triệu lao động nước ngoài có giấy phép lao động và 2-3 triệu lao động không có giấy phép lao động đến Thái Lan. Đa số họ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. Và họ được chủ lao động đăng ký bảo hiểm xã hội và đóng phí với tỷ lệ người lao động 5%, doanh nghiệp 5% và nhà nước 2,75% theo mức lương. Khi đóng bảo hiểm xã hội, họ được hưởng quyền lợi khi thai sản, vô sinh, đau ốm hoặc chấn thương, tàn tật, hoặc tử vong không do lao động, tuổi già hay thất nghiệp. Ngoài ra, người sử dụng lao động ở Thái Lan còn đóng thêm 0,2 – 1% mức lương của người lao động cho quỹ bồi thường theo mức độ rủi ro của công việc. Do đó, khi lao động nước ngoài về hưu đúng 55 tuổi và đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội hơn 10 năm, không có nhu cầu quay trở lại Thái Lan làm việc nữa thì họ có thể nhận tiền hưu trí.
Tuy nhiên, theo quy định của Thái Lan thì một số đối tượng người lao động nước ngoài không cần phải đóng bảo hiểm xã hội, cụ thể đó là người giúp việc, lao động nông nghiệp theo mùa và ngắn hạn…Song, đối tượng này có thể tham gia đóng bảo hiểm y tế tại đất nước này.
Tại sao lại có quy định này ở Thái Lan. Việc phân định đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và một số đối tượng không phải tham gia bảo hiểm có ý nghĩa gì?
Từ nghiên cứu thực tế, Thái Lan hiểu nhóm lao động có trình độ thấp sẽ không được hưởng quyền lợi khi doanh nghiệp chỉ thuê lao động ngắn hạn để giảm thiểu chi phí lao động. Còn nhóm lao động có trình độ cao thì ít có vấn đề hơn do các doanh nghiệp có chính sách phúc lợi hấp dẫn nhằm thu hút đối tượng này.
Hiện nay, Việt Nam cũng đang nghiên cứu hình thức đóng bảo hiểm xã hội của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo quy định tại khoản 2, điều 2, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì người lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ. Quy định này chính thức bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp có nguồn vốn nước ngoài đang rất e ngại vấn đề này, bởi họ cho rằng quy định này bất hợp lý vì doanh nghiệp phải đóng bảo hiểm xã hội hai lần, cụ thể: một lần tại đất nước mà công ty đặt trụ sở chính và một lần tại đất nước mà công ty đặt chi nhánh, chưa kể, các doanh nghiệp đều có chế độ phúc lợi riêng cho nhân viên của mình. Xem tham khảo thêm Thủ tục xin giấy phép lao động tại đây hoặc https://thutucxingiaypheplaodong.com/.
Một vấn đề khác đặt ra là có phải người lao động nào cũng cần đóng bảo hiểm xã hội để đảm bảo vấn đề an sinh xã hội hay không. Câu trả lời là không, bởi người lao động có trình độ cao thì các doanh nghiệp đều có chính sách ưu đãi đặc biệt cho cuộc sống của cá nhân và gia đình của họ, do đó họ có thể không cần sử dụng quyền lợi từ bảo hiểm xã hội cho vấn đề ốm đau, thai sản… Còn người lao động có trình độ thấp thì bảo hiểm xã hội là 1 nhu cầu không thể thiếu của họ. Bảo hiểm xã hội sẽ phát huy vai trò an sinh xã hội với người lao động có trình độ thấp. Kéo theo đó là 1 vấn đề, người có trình độ cao, thu nhập cao, phải đóng mức phí cao, nhưng ít sử dụng quyền lợi từ bảo hiểm xã hội. Còn người có thu nhập thấp, đóng phí thấp lại có nhu cầu cao về sử dụng bảo hiểm xã hội. Vậy làm sao để quỹ bảo hiểm xã hội duy trì ở mức độ cần bằng hay thặng dư?
Chính sách bảo hiểm xã hội là cần thiết để tạo sự an tâm làm việc và sinh sống cho người lao động ở các nước. Bài toán về bảo hiểm xã hội cho người nước ngoài cần được các nhà hoạch định chính sách Việt Nam xem xét và giải quyết. Chúng ta có thể tham khảo, xem xét và phân loại lao động nước ngoài trước khi thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo mô hình của Thái Lan. Tham khảo: Internet